Thanh Nhạc
Hoàng Viết Hùng
ʺPractice make perfect, so practice rightʺ
Chương trình (giáo án):
1. Session 1: Lấy hơi và ca hát (phần I).
2. Session 2: Lời ca: những nguyên âm (phần II).
3. Session 3: Lời ca: những phụ âm đầu và âm cuối (phần III – IV).
4. Session 4: Khép âm và những vấn đề lên quan đến hợp ca (phần V – VI).
Mở đầu
Thanh nhạc là một bộ môn quan trọng trong lãnh vực ca hát, nhằm thăng tiến khả năng của người hát trong việc sử dụng ngôn ngữ cho rõ, cho đúng và cho phù hợp (phù hợp với từng loại nhạc và từng miền).
Trong lãnh vực hợp xướng, thanh nhạc lại càng cần thiết cho các Ca trưởng để huấn luyện cho Ca đoàn hát đều, gọn, vang, rõ và hay.
Những tài liệu tham khảo:
• Thanh nhạc (nhóm Quê Hương)
• Voice lession by Dave and Shalee (CD)
• Moriarty Diction, E .C .Schimer Music Company
I. Lấy Hơi và Ca Hát
Ai cũng có thể hát được, từ một em nhỏ cho đến những người già cả. Khi hát chỉ cần lấy hơi và hát. Nghe thì rất đơn giản, nhưng để hát đúng và thăng tiến giọng hát của mình, chúng ta cần lấy hơi và phát âm cho đúng.
Hiểu biết về bộ phận phát âm, sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều trong việc ca hát. Trong giới hạn của khóa học Ca trưởng, chúng ta chỉ bàn đến những điều rất cơ bản.
1. Bộ phận hô hấp (respiratory system) gồm có phổi, được bao bọc bởi các xương trước ngực, xương sườn và hoành cách mô (diaphragm, một cái màng phân chia giữa bụng và phổi).
2. Lấy hơi đúng: Lấy hơi đúng trong ca hát, không phải là hít hơi vào phổi, mà khi chúng ta hạ Hoành cách mô (diaphragm) xuống, tức là phình bụng ra, thì hơi (không khí) tự động vào trong phổi. Nếu chúng ta cố tình hít hơi vào (qua mũi hặc miệng), chúng ta sẽ thấy mệt, chóng mặt, và nghe những tiếng ʺxìʺ…
Thực tập 1: dùng gương soi khi lấy hơi. Ðứng thẳng, ngực (chest) hơi vươn lên, miệng hơi hé mở để tập lấy hơi cả mũi lẫn miệng. Lấy hơi nhanh và sâu. Nếu lấy hơi đúng thì khi hơi vào bụng, bụng sẽ phình ra, sương sườn dưới sẽ nở ra, và vai không chuyển động.
3. Nén hơi: Như khi chúng ta đẩy một vật gì nặng, trước khi đẩy chúng ta thường nén hơi để có sức hơn. Trong ca hát cũng vậy, trước khi hát chúng ta cũng nén hơi để giọng hát được mạnh và hơi được dài hơn. Nén hơi là động tác thứ hai sau khi lấy hơi vào phổi. Khi chúng ta nén hơi, thì bụng của chúng ta hơi cứng lại.
4. Ðẩy hơi ra: Tùy theo câu hát cao hay thấp, nhẹ hay mạnh, để chúng ta nén hơi và đẩy hơi ra. Khi hát cao và mạnh, chúng ta hơi ép bụng sâu hơn.
Thực tập 2: sau khi lấy hơi, nén hơi, đẩy hơi từ từ ra (nghe tiếng xì nho nhỏ), đếm từ 1 tới 4, và dần dần gia tăng số đếm…khi thở ra cố gắng giữ sương sườn mở (expanded) bằng cách giữ thẳng người. Ðây là cách thở bằng hoành cách mô, có thể khác với cách thở bình thường (tránh di động vai và ngực).
• Mục đích tập nén hơi và đẩy hơi ra (điều chế làn hơi) .
• Hát nhẹ, đưa âm thanh lên mặt.
• Ðể cho vui, chia lớp học thành 3 bè, rồi trước sau (đuổi nhau)…
5. Bộ phận phát thanh: Âm thanh phát ra do làn hơi đi qua Thanh đới (vocal cords), thanh đới nằm ở trong thanh quản (larynx) . Khi dây Thanh đới rung (đóng, mở) thì phát ra tiếng (cũng tương tự như người ta thổi kèn) . Khi chúng ta thở, dây thanh quản mở ra để không khí vô phổi, khi chúng ta nuốt thức ăn, thanh đới đóng lại để thức ăn khỏi vào phổi. Khi dây thanh đới càng đóng mở (rung) nhanh, âm thanh phát ra càng cao.. Hiểu biết được điều này sẽ giúp chúng ta hát đúng khi phải hát những nốt cao: ép hơi để lên cao, chứ không phải ʺgào lênʺ ở cổ. Tương tự như cây đàn phong cầm (harmonium), càng những nốt cao thì càng đạp hơi mạnh, chứ không phải là nhấn những key trên phím đàn mạnh. Trường hợp hát lên cao mà không ép hơi, có thể gây khan tiếng, rát cổ họng…
Thực tập 3: tập hát những chữ cao bằng cách điều khiển hoành cách mô (bụng) thay vì dùng cổ họng.
6. Bộ phận tăng âm và dội âm. Tiếng phát ra khi giây Thanh đới rung thì rất nhỏ. Nhờ đi qua cổ họng và những xoang (lỗ hổng) trong trong đầu,
trong mũi và trong miệng mà âm thanh phát ra được lớn hơn và có âm sắc khác nhau. Tương tự như cái thùng đàn, âm thanh lớn mạnh và hay là do cái thùng đàn, âm sắc khác nhau là do thùng đàn lớn hay nhỏ, hoặc tùy thuộc vào vật liệu của thùng đàn. Hiểu biết được điều này, qua việc điều chỉnh khẩu hình và vị trí của âm thanh, chúng ta có thể thay đổi âm sắc trong lời ca.
– Bình thường, âm thanh phát ra ở mặt (người ta có câu ʺhát ở sau con mắtʺ)
– Âm thanh trầm: đưa âm thanh xưống dưới và đàng sau. Trầm nhất là ở ngực.
– Âm thanh sáng: đưa âm thanh về phía trước mặt và trên đầu. Sáng nhất là ở trên đầu (người ta gọi là ʺgiọng ócʺ).
Thực tập 4: Tập hát chữ ʺmàngʺ, khép âm chữ ʺngʺ và cho học viên cảm nghiệm được âm thanh phát ra ở vị trí ʺsau mắtʺ (các thớ thịt trên mặt sẽ rơi rung).
7. Cuối cùng, âm thanh đi qua miệng để phát thành tiếng. Tiếng hát được rõ ràng là nhờ môi, lưỡi, răng và mũi. Thiếu một trong 4, sẽ làm cho phát âm không rõ ràng. Miệng và mũi là bộ phận tạo ra tiếng hát.
Kết luận:
– Khi hát luôn thẳng người, trong tư thế tự tin.
– Lấy hơi đúng là lấy hơi ở bụng (hoành cách mô)
– Trước khi hát thì nén hơi, và khi hát thì đẩy hơi ra bằng hoành cách mô, chứ không ʺgào lênʺ ở cổ.
– Hình dạng, kích thước của miệng, và thanh đới tạo ra âm thanh.
– Những xoang, xương và những đường dẫn khí trong mũi, miệng và trên đầu làm cho âm thanh có mầu sắc (chất lượng).
– Ngực, thanh quản, và toàn thân thể làm cho tiếng hát thêm đậm đà, trở thành của riêng ta, mà không có ai giống ai…
Áp dụng thực hành:
1) Làm thế nào để dưỡng tiếng hát ?
– Nên uống nhiều nước để giúp dây thanh đới khỏi bị khô.
– Khi hát nhiều, nên có những giây phút ʺbreakʺ.
– Nên hát những bài đúng với âm vực của giọng mình, những bài qúa trầm hay qúa cao dễ làm cho bị ho và mất tiếng.
– Nếu phải hát nhiều, nên dưỡng hơi, nghỉ ngơi, kể cả việc kiêng nói chuyện nhiều.
– Cất caffein và thuốc lá dễ làm khô cổ, nên tránh hoặc giới hạn.
– Nên ʺwarm upʺ trước khi hát
2) Làm thế nào để lấy hơi đúng trong Ca đoàn ?
Lấy hơi đúng là một việc rất quan trọng trong Ca đoàn. Nếu không lấy hơi đúng, có thể vô nhịp không đều, hát không đủ hơi, hoặc có thể làm cho chúng ta dễ bị mệt.
Việc lấy hơi trong Ca đoàn tùy thuộc phần lớn, có thể nói 90%, ở tay nhịp của Ca trưởng. Đó là lý do tại sao cùng một Ca đoàn mà mỗi Ca trưởng điều khiển, Ca đoàn hát mỗi khác…
– Nguyên tắc chung khi lấy hơi:
o Lấy hơi qua mũi lẫn miệng.
o Lấy hơi nhanh hay chậm tùy theo tốc độ của bài hát.
o Lấy hơi nhiều hay ít tùy theo câu hát ngắn hay dài. Những câu hát ngắn thì nên lấy hơi vừa đủ, lấy hơi nhiều quá với một câu hát ngắn sẽ dễ bị mệt. Bình thường lấy hơi sâu và đầy bằng hoành cách mô.
– Lấy hơi những khi khởi tấu: không nên mở miệng lớn qúa.
– Lấy hơi trộm: lấy hơi qua miệng, nhanh.
– Cướp hơi: lấy hơi qua miệng, thật nhanh. (Thí dụ bài Tán Tụng Hồng Ân, chỗ ʺcon sẽ ca ngợiʺ..)
3) Làm thế nào để hát được cao?
Giọng của mỗi người mỗi khác nhau là do hình dạng và kích thước của thanh quản khác nhau. Thanh quản của đàn ông lớn hơn đàn bà khoảng 20%, đó là lý do ʺtrái cấm (Adamʹs apple – thyroid cartilage) của đàn ông lớn hơn của đàn bà. Khi thanh đới mở lớn, rung chậm, tiếng phát
ra trầm; khi thanh đới hẹp và căng, rung nhanh, tiếng phát ra cao.
Ðể có thể hát cao được:
• Chúng ta phải tập luyện thường xuyên (trước khi hát, thường phải ʺwarm upʺ, nhất là vào buổi sáng) .
• Khi hát những nốt cao thì đầu hơi cúi xuống (căng dây thanh đới), cánh mũi mở ra.
• Khi hát những nốt cao, thì hát nhỏ nhẹ lại và ʺrelaxʺ.
• Cần có sức khỏe tốt, khi người mệt và yếu sẽ không lên cao được.
4) Làm sao hát cho đúng âm sắc ?
Âm sắc là mầu sắc của âm thanh: tối, sáng, trong, đục, thanh, trầm, vv… Mỗi bài hát hay mỗi câu hát có thể thích hợp cho một mầu sắc khác nhau. Âm sắc khác nhau là do vị trí của âm thanh phát ra khi hát và tùy thuộc vào hình dạng, khích thước mở miệng, cũng như độ mở của những
khoảng trống trong miệng, trong mũi, hoặc xương đầu hay ngực…Tiếng hát sẽ không được gọn, nếu cố tình đẩy âm thanh ra từ cửa miệng. Âm thanh nên phát ra ở trước mặt, khoảng mắt.
• Càng đưa xuống thấp âm thanh càng tối (thấp nhất ở là ngực – chest) .
• Càng đưa lên cao âm thanh càng sáng (cao nhất ở đỉnh đầu)
5) Làm sao để ʺwarm upʺ tiếng hát?
– Khi hát vào buổi sáng sớm:
o Uống nước nóng hay ấm (nước trà) để ʺwarm upʺ giọng và thân thể.
o ʺwram upʺ giọng, bằng cách ʺhumʺ những nguyên âm, hoặc hát những bài nhẹ nhàng, dễ hát.
– Khi hát đi hát lễ và tập hát:
o Ðến đúng giờ ( nghĩa là 15 phút trước giờ)
o Không nên nói chuyện qúa nhiều trước khi hát.
– Cuối cùng, nên chú ý đến sức khỏe của mình, exercise…!
o Tập thể dục sẽ gia tăng sức khỏe cho thanh đới.
o Warm up mặt (face), cổ (neck) – xoa nhẹ 2 thớ thịt 2 bên cổ và đàng sau cổ;
o Di động cằm dưới (lower jaw) – lên xuống, ra – vào.
6) Tại sao khi hát bị rát cổ?
Khi chúng ta hát nhiều quá, hoặc khi qúa cố gắng khi chưa ʺwarm upʺ đủ, hoặc khi người không được khỏe, và nhất là việc hít thở không đúng cách, làm cho thanh đới bị đau và chúng ta rát cổ.
Để ý những khi chúng ta nóng giận, hay khi khóc, chúng ta dễ bị rát cổ hoặc mất tiếng, vì khi la hét, chúng ta gào lên ở cổ, thay vì ép hơi ở hoành cách mô. Để tránh bị rát cổ và mất tiếng, chúng ta nên:
• Trong khi hát, lấy hơi cho đúng phương pháp.
• Uống nhiều nước.
• Nghỉ ngơi (break) khi cảm thấy mệt, không nên qúa cố gắng khi đã mệt.
• Hát những bài trong âm vực của mình, những bài cao hoặc trầm qúa âm vực rất có hại. Khi phải lên cao, hát nhỏ và ʺrelaxʺ.
• Tránh nói qúa nhiều trước và trong khi tập hát, nhất là những chuyện có vẻ hấp dẫn(excited).
Thực tập 5:
Tập hát dài hơi:Mới đầu cho hát làm 2 hơi, sau đó hát 1 hơi với tempo nhanh, rồi chậm lại dần. Ðể ý đến việc lấy hơi, ép hơi và đẩy hơi (chưa cần để ý đến khẩu hình)
Nếu có thời giờ, chú trọng đến âm vực:
• Tập hát lên cao (soprano và tenore): bắt đầu từ F, lên F#, G, G#, A, Bb và C.
• Tập hát xuống thấp (alto và base): bắt đầu từ F, xuống E, Eb, D,Db và C hoặc (Bb).
Thực tập 6:
Bài tập chú trọng đến cách diễn tả dấu nhấn (Marcato) và dấu chấm (dot) . Sử dụng hoàng cách mô để diễn tả những dấu nhấn này. Chú ý đến vai và đầu, không nên di động.
II. Lời Ca: Những Nguyên Âm Tiếng Việt
Chúng ta đã biết, mỗi tiếng (chữ) chúng ta đọc hay hát lên được hình thành bởi những nguyên âm (vowels) và những phụ âm (consonances), hay ít nhất là một nguyên âm, như chữ A, ngay cả lúc tác giả viết ʺhmʺ, chúng ta cũng phải hát ʺhumʺ.
Học hỏi về ngôn ngữ cả là một chương trình phức tạp, ở đây chúng ta chỉ chú trọng đến những việc thực hành, giúp chúng ta hát rõ và hay.
1. Các phần trong một chữ: không kể các dấu giọng trong âm tiết, theo bình thường, một chữ chúng ta hát, có 3 phần:
a) Âm đầu
b) Nguyên âm (bao giờ cũng cần)
c) Âm cuối
Thí dụ:
Âm đầu Nguyên âm Âm cuối Ghi chú á! á !
B à Bà (không có âm cuối)
V ạ n Vạn
Nh ư ng Nhưng
ó c óc (không có âm đầu)
Ng ườ i Người
Ngh iã Nghĩa
Ng uyê n Nguyên
2. Âm mở và âm đóng
a) Âm mở: Khi chúng ta hát chữ ʺBàʺ, chúng ta ngân ở chữ ʺàʺ cho đến hết,miệng chúng ta giữ nguyên một vị trí, nên chữ ʺBàʺ có âm mở. Tất cả nhữngchữ không có âm cuối, gọi là những chữ có âm mở, hay vần mở.
b) Âm đóng: Những chữ phải thay đổi khẩu hình trước khi tắt âm, chúng đượcgọi là những chữ có âm đóng hay vần đóng.
c) Khi nói đến việc khép âm hay đóng âm cho đều, tức là chúng ta có ý nói thayđổi khẩu hình trước khi tắt âm cho đều. (Chúng ta sè bàn sâu thêm về đề tài ʺkhép âmʺ, tạm thời có thể dùng thí dụ 4, chữ ʺmàngʺ làm thí dụ điển hình)
A. Nguyên âm đơn
Khi phát âm (sử dụng) những nguyên âm cho đúng, sẽ giúp chúng ta:
– Hát rõ tiếng và vang hơn, thí dụ: chữ CA không hát thành chữ CO.
– Phân biệt được phải ngân chỗ nào, thí dụ: chữ ʺtoànʺ ngân ở vần ʺàʺ chứ không ngân ở vần ʺoʺ.
Những nguyên âm đơn chính được phân chia theo vị trí của lưỡi và độ mở
của miệng như sau:
Trong những nguyên âm trên, có 5 nguyên âm quan trọng chúng ta sẽ nói đến:
I, Ê, A, Ô, U
1. Nguyên âm ʺiʺ :
Nguyên âm ʹiʺ có âm sáng và cao nhất trong các nguyên âm. Khi hát, âm thanh ʺiʺ phát ra từ mặt chúng ta. Khi học về thanh nhạc (voice), người ta thường bắt đầu học từ nguyên âm ʺiʺ rồi sau đó mới tới các nguyên âm khác.
Âm thanh ʺiʺ được tạo ra bởi đầu lưỡi hơi chạm sau chân răng dưới, mặt lưỡi hơi cong, và miệng hơi căng ra. Mặt lưỡi không nên bẹt ra và cằm dưới nên tự nhiên
(relax) .
Thực tập 7:
Thực tập hát chữ ʺMIʺ: mí – mi – mi – mi – mì (sol fa mi re do) .
Thực tập 8: Tập hát chữ ʺTìnhʺ cho đúng (nhỏ và gọn); cướp hơi sau chư ʺvờiʺ và hát chữʺvíʺ cho ra chữ ʺiʺ.
2. Nguyên âm ʺêʺ
Giống như ʺiʺ, nguyên âm ʺ êʺ được tạo ra bởi đầu lưỡi hơi chạm sau chân răng dưới, lưỡi hơi bẹt hơn nguyên âm ʺiʺ, cằm relax.
Thực tập 9:
Tập hát chữ ʺMIʺ, rồi chuyển từ ʺiʺ sang ʺêʺ từ từ. Tập 2 cách khác nhau: lúc đầu chỉ chuyển động lưỡi và giữ nguyên cằm; sau đó chuyển động cằm và giữ nguyên lưỡi.
Hát đoạn nhạc sau đây:
3. Nguyên âm ʺaʺ
Nguyên âm ʺaʺ được tạo ra bởi đầu lưỡi hơi chạm sau chân răng dưới, lưỡi hơi bẹt hơn nguyên âm ʺiʺ, cằm chuyển xuống dưới và relax.
Soi gương, để ý thấy vòm mềm (soft plate) co lên. Tưởng tượng như mình sắp sửa ngáp (jawn). Cằm hạ xuống một cách tự nhiên, tránh căng thẳng.
Khi hát ʺaʺ, không để lộ hàm răng dưới ra qúa, cũng không mở miệng qúa. Nhiều người nghĩ rằng mở miệng to sẽ hát lớn hơn, nhưng thưc sự không phải vậy, khi chúng ta mở miệng to quá thì âm thanh có thể không được vang, giảm mầu sắc và mất đi âm hưởng (overtones) của nó.
Khi lên cao, tránh thụt lưỡi vào, sẽ làm cho cằm và cổ bị căng thẳng.
Thực tập chuyể n từ ʺiʺ tới ʺaʺ.
Thực tập 10: tập âm ʺaʺ, lên dần hay xuống dần…
4. Nguyên âm ʺôʺ
Nguyên âm ʺôʺ được tạo ra bởi cuống lưỡi và đầu lưỡi hơi ở phía trước, miệng ở giữa hình trái xoan (quả trứng) và hình tròn.
Thực tập: Hát chữ ʺĐôʺ, tưởng tượng mình đang ʺmỉm cười trong miệng, hoặc đang ngậm một qủa trứng. Khi hát chữ ʺôʺ không cần mở miệng lớn, nhưng cần nhiều khoảng trống ở trong miệng (và cánh mũi mở rộng), ở cổ họng và thanh quản cũng cần mở.
Thực tập 11:
Tập chuyển từ chữ ʺiʺ sang ʺôʺ từ từ, chỉ di chuyển lưỡi và cằm. Để ý âm sắc thay đổi khi chúng ta di chuyển cằm xuống. Càng xuổng quai hàm xuống sâu, âm thanh càng ʺtốiʺ.
5. Nguyên âm ʺuʺ
Khi hát ʺuʺ thì cuống lưỡi và đầu lưỡi hơi ở đàng trước, môi chúm lại, cằm và lưỡi đều hạ xuống và lưỡi uốn một vòng cong.
Âm thanh ʺuʺ có mầu sắc ʺtốiʺ và ʺsâuʺ. Khi hát nâng vòm mềm lên và mở rộng những khoảng trống trong miệng và cổ họng.
Tập hát ʺiʺ trước rồi chuyển từ từ sang ʺuʺ, chỉ di động môi và lưỡi (đều là âm hẹp).
Khi chúng ta di động cằm xuống qúa, âm thanh sẽ trở nên rất ʺtốiʺ.
Thực tập 12:
Áp dụng khép âm :
1. Những chữ có nguyên âm ngắn ʺâʺ hoặc ʺăʺ, thường khép âm sớm. Những chữ kế bằng ʺayʺ cũng giống như ʺăyʺ đều khép âm sớm: thay = thăy; may = măy, hãy = hẵy,lạy = lậy, vv…
(Thí dụ: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con…)
2. Những chữ có nguyên âm ở hàng ʺhẹpʺ (I, Y, Ư, U) thường khép âm sớm.
(Thí dụ: Xin vâng, Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng…)
Bài tập 13: Tổng hợp các nguyên âm quan trọng
Bài tập 14: Tập hát các nguyên âm; ép bụng khi nhấn; hát phụ âm ʺNGʺ không chuyển khẩu hình và ngân dài nốt cuối cùng, lắng nghe …, tập rung.
B. Nguyên Âm Phức
Một số trường hợp, 2 nguyên âm ở gần nhau, khi hát khẩu hình được chuyểnlàm 2 lần: từ nguyên âm trước chuyển đến khẩu hình của âm ʺƠʺ. Những nguyên âm này được gọi là nguyên âm phức.
Có 2 dạng nguyên âm phức hay gặp:
1. Khi nguyên âm ở trước là những nguyên âm mở miệng ʺhẹpʺ (I/Y, Ư, U) và nguyên âm ở cuối là nguyên âm ʺAʺ.
2. Khi nguyên âm ở trước là những nguyên âm mở miệng ʺhẹpʺ, và nguyên âm ở sau là nguyên âm mở miệng ʺvừaʺ.
Thí dụ:
– chia (hát là: ch-iii-ơ)
– khuya (hát là: khuyy-ơ)
– chưa (hát là: chưư-ơ)
– chúa (hát là: chúú-ớ)
Thí dụ:
– thuyết (hát là: thuy-ớ—t)
– thương (thư-ơ—-ng)
– thuốc (thu-ớ—-c)
Áp dụng khép âm: Các nguyên âm phức thường khép âm từ từ.
Tài liệu huấn luyện Ca trưởng 13
Bài tập 15:
Hát bài tập trên, và khép âm chữ ʺChiênʺ sớm. Trường hợp gặp nét nhạc như bên dưới thì có thể khép âm từ từ.
C. Nguyên âm chính và nguyên âm đệm
Có những trường hợp khác, 2 hay nhiều nguyên âm đi với nhau, nguyên âm ở trước là nguyên âm đệm, nguyên âm ở sau mới là nguyên âm chính. Khi hát thì chỉ ngân ở nguyên âm chính. Mục đích của nguyên âm đệm là để mở khẩu hình cho đúng trước khi hát nguyên âm chính.
Những nguyên âm phụ hay gặp: i/y, o và u.
Thí dụ:
Giam ngân ở âm ʺaʺ là nguyên âm chính. Âm ʺiʺ chỉ để mở khẩu
hình. Khoẻ ngân ở âm ʺẻʺ. Âm ʺoʺ để tròn môi.
Khuyên ngân ở âm phức ʺyêʺ. Âm ʺuʺ chỉ để chúm môi trước khi hát
ʺyêʺ Thí dụ về âm đệm có thể tìm thấy trong bài ʺCon sẽ hân hoan tiến vào cung thánh..ʺ
Phân tích về các nguyên âm trong đoạn bài hát này, ta sẽ thấy:
• Con : ʺoʺ là âm chính, tròn môi.
• Sẽ : ʺẽʺ là âm chính, bẹt miệng.
• hân : ʺâʺ là âm chính, ngắn, khép âm ngay.
• hoan : ʺoʺ là âm đệm, tròn môi; ʺaʺ là âm chính.
• tiến : ʺiêʺ là âm phức, khép từ từ
• cung : ʺuʺ là âm chính, hẹp, khép âm ngay.
• thánh : ʺáʺ là âm chính, một trường hợp đặc biệt, khép âm ngay (sẽ nói sau)
Bài tập 16: Phân tích các nguyên âm trong phần ÐK của bài ʺÔi Thần Linh Chúaʺ (bài tập điều khiển số 2) và tập khép âm cho đúng.
Lời Ca: Những Phụ Âm Đầu
Âm đầu thường là những phụ âm. Sử dụng phụ âm đầu cho đúng sẽ giúp chúng ta hát được rõ và đúng tiếng Việt. Nhiều người có vấn đề với việc phát âm phụ âm đầu. Một vài thí dụ điển hình:
– Chữ ʺtrâuʺ thành ʺchâuʺ hay ʺtâuʺ.
– Các em nhỏ Việt Nam sống ở nước Mỹ, hát chữ ʺthươngʺ nghe như ʺsươngʺ.
– Chữ ʺNʺ thành ʺLʺ, hoặc ngược lại.
– Chữ ʺquêʺ nghe như chữ ʺwuêʺ
– Chữ ʺVềʺ thành ʺdềʺ, vv.
Sau đây chúng ta bàn đến một vài phụ âm đầu mà thỉnh thoảng chúng ta nghe thấy sai:
Phụ Âm Cách Phát Âm Thí dụ
V Răng trên và môi dưới vắng vẻ
TH Đầu lưỡi để sau chân răng trên, khi phát âm thì đẩy hơi ra và hạ lưỡi và cằm xống thênh thang X Đầu lưỡi để sau hai hàm răng khép, môi
như đang cười, và đảy hơi ra.
xinh xắn S Đầu lưỡi để sau chân răng dưới, mặt lưỡi
cong gần vòm cứng (lợi), đẩy hơi ra.
sung sướng
N Đầu lưỡi để ở vòm cứng, gần chân răng nung náu
L Đầu lưỡi uốn lại ở vòm cứng lung linh
TR Đầu lưỡi để ở vòm cứng, đẩy hơi, rung ở đầu lưỡi khi hạ cằm và lưỡi xuống trong trắng
CH Mặt lưỡi để ở vòm cứng, đẩy hơi. chói chang
Q Cuống lưỡi ở vòm cứng và đẩy hơi quê qúa
R – Rung lưỡi khi hát tiếng Latin như
ʺMariaʺ.
– Rung lưỡi nhẹ khi hát những chữ:
ʺrung rinhʺ, ʺrun rẩyʺ, ʺrộn ràngʺ.
– Bật lưỡi nhẹ khi hát những chữ
khác: ʺrấtʺ, ʺráoʺ, ʺrâmʺ .
Áp dụng thực hành:
1) Hát trong Ca đoàn và Solo khi dùng những phụ âm đầu.
Khi solo , chúng ta có thể hát theo sở thích tùy ý. Khi hát trong Ca đoàn, chúng ta phải theo nguyên tắc chung thì mới có sự đồng nhất. Chúng ta không thể nghe một vài Ca sĩ hát chữ ʺrồiʺ thành ʺdzồiʺ, hoặc ʺtrongʺ thành ʺchongʺ, vv. sau đó mang vào áp dụng trong Ca
Tài liệu huấn luyện Ca trưởng 15 đoàn được. Chữ ʺrʺ trong chữ ʺrồiʺ nên để đầu lưỡi sau chân răng trên (cho dù không rung).
2) Làm sao để hát được rõ?
Hát rõ tiếng là một việt hết sức quan trọng trong Ca đoàn, nếu chúng ta hát mà người nghe không hiểu, tức là chúng ta đã mất đi mục đích thông đạt: không hiểu được, thì không thể cảm nhận (feel) được. Để hát được rõ tiếng:
• Nên tập trước, đọc trước lời ca, và nhấn cho đúng ý nghĩa.
• Tập hát cho rõ tiếng trước rồi mới đến việc tập kỹ thuật to nhỏ.
• Những chữ ʺmà, là, thì, ở, vv…ʺ là những chữ không quan trọng.
• Luôn ʺrelaxʺ hàm dưới.
3) Hát tiếng ngoại quốc:
Đã không hát thì thôi, đã hát thì phải hát cho đúng ngôn ngữ mà mình hát, không thể nói rằng chúng tôi là người Việt Nam, nên chúng tôi hát tiếng Anh hoặc tiếng Latin theo kiểu Việt Nam. Bởi thế, khi hát tiếng Latin, không thể phát âm như tiếng Anh, thí dụ: Is-ra-el, phát âm ʺIs-ra-eoʺ là không đúng; hoặc A-men hát thành ʺÊ-menʺ cũng không đúng.
Bài tập 17: tập hát cho đúng các phụ âm đầu.
III. Âm Cuối.
Như chúng ta đã nói ở phần trước, âm cuối có thể là một nguyên âm hay một phụ âm.
Khi âm cuối là một nguyên âm, thì nó được gọi là ʺbán âm cuốiʺ. Cũng như phụ âm đầu, có rất nhiều người, nhiều nơi, nói không đúng tiếng Việt, vì dùng phụ âm cuối không đúng. Thí dụ:
– Chữ ʺthánhʺ nói thành chữ ʺthánʺ, hay ʺtìnhʺ nói thành ʺtìnʺ.
– Chữ ʺuốngʺ nói thành ʺuốnʺ
– Chữ ʺvấnʺ nói thành ʺvấngʺ, vv..
A. Bán Âm Cuối:
Những bán âm cuối thường gặp: I, Y, U, và O
– Bán âm cuối bẹt miệng: ʺiʺ hoặc ʺyʺ
– Bán âm cuối tròn môi: ʺoʺ hoặc ʺuʺ
Bán âm cuối Khi khép âm Thí dụ
I Khép hờ răng và môi. Môi căng ra như mỉm cười
cười, tươi, ai, ơi, phải
Y (cũng giống như ʺIʺ ở trên) thay, mây, hãy
O Tròn môi lại cao ngạo
U Chúm mội lại nếu, điều, yêu
Bài tập 18: Phân tích các bán âm cuối trong bài Trời Cao và hát cho đúng.
B. Phụ âm Cuối.
Phụ âm cuối được chia thành 4 nhóm sau đây:
Phụ âm cuối Khi khép âm Thí dụ N, T (phụ âm đầu lưỡi)
Đầu lưỡi để lên vòm cứng, ngân qua đường mũi. xin, xót
M, P (phụ âm môi)
Ngậm môi, ngân qua đường mũi. năm, khắp NH, CH
(phụ âm mặt lưỡi)
Nửa mặt lưỡi sau để lên vòm cứng, ngân qua đường mũi. chính, khách
C, NG
(phụ cuống lưỡi)
Cuống lưỡi khép với vòm mềm, ngân qua đường mũi. các, Khi ở trước là những nguyên âm ở sau (O, Ô, U), thì phải chúm miệng lại. khúc, không
Bài tập 19: tập hát các phụ âm ʺđầu lưỡiʺ (n, t):
Bài tập 20: tập hát các phụ âm cuối
• Ðêm, đem, lầm : ʺmʺ là phụ âm môi
• Giáng, xuống, phúc: ʺngʺ và ʺcʺ là những phụ âm cuống lưỡi
• Sinh : ʺnhʺ là phụ âm mặt lưỡi
• Chốn gian, trần, ơn, muôn, dân, than : ʺnʺ là phụ âm đầu lưỡi.
IV. Khép Âm (hay đóng âm) và Dấu Giọng Tiếng Việt
A. Khép âm:
Khép âm đều là một việc rất quan trọng trong hợp xướng. Biết được những nguyên tắc khép âm (sớm hay muộn) sẽ giúp Ca trưởng tụ tin hơn trong việc tập hát cho Ca đoàn.
Sau đây là một vài nguyên tắc khép âm tóm lược mà các Ca trưởng nên biết thuộc lòng:
Nên khép âm sớm những trường hợp sau đây:
1. Những chữ có nguyên âm (đọc) ngắn: ʺâʺ, ʺăʺ.
2. Những chữ có nguyên âm mở miệng hẹp (I/Y, Ư, U).
3. Những chữ có nguyên âm hàng trước (E, Ê, I/Y) đi với phụ âm mặt lưỡi (NH, CH).
4. Những chữ có nguyên âm hàng sau (O, Ô, U) đi với phụ âm cuống lưỡi (C, NG).
Trường hợp ngoại lệ: Những chữ có những vần cuối là ʺanhʺ cũng nên khép âm sớm.
Chữ ʺanhʺ có thể hiểu như ʺenhʺ.
Khép âm sớm sẽ giúp cho tiếng hát được rõ nghĩa, theo nguyên tắc thì tất cả mọi chữ đều có thể khép âm sớm, nhất là khi hát với hành độ nhanh. Ở những nốt ngân dài và nhất là lên cao, có thể khép âm chậm lại để tiếng hát được vang và dễ hát.
Ngược lại với khép âm sớm, khép âm từ từ là ngân ở nguyên âm chính, rồi từ từ thay đổi khẩu hình để khép âm.
Thực tập 21: phần Phiên Khúc của bài Ca Khúc Trầm Hương của Dao-Kim
B. Dấu giọng tiếng Việt (thanh điệu)
Chúng ta thường nghe nói ʺTiếng việt có 5 dấu, 6 giọngʺ. Sau đây là một vài ghi chú quan trọng về dấu, giọng của tiếng Việt:
Dấu Giọng (thí dụ) Ghi chú về thanh điệu (cao thấp)
(không dấu) nôi Trung bình (không cao không thấp)
sắc : ʹ nối Cao (khi lên cao thường dùng 2 nốt.)
huyền: ` nồi Thấp hỏi: ? nổi Thấp (thường dùng 2 nốt mới rõ tiếng: nô – ổi) ngã: ~ nỗi Cao (thường dùng 2 nốt mới rõ tiếng: nô – ỗi)
nặng: . nội Thấp (đôi khi dùng 2 nốt cùng cao độ: nộ – ội)
Áp dụng thực hành:
Láy và luyến khi hát:
Láy và luyến khác nhau. Láy là hát thật nhanh ở nốt trước để đến nốt chính. Luyến là hát cả hai nốt rõ ràng. Trong tiếng Việt thường phải láy nhiều. Nhiều tác gỉa không ghi rõ những nốt láy ở những chữ có dấu ʺngãʺ và dấu ʺhỏiʺ, nhất là khi câu nhạc ở những câu phiên khúc 2, 3, 4… Khi hát chúng ta phải liệu để hát cho rõ chữ. Người ngoại quốc hát nhạc Việt không rõ chỉ vì thiếu những chỗ phải láy cần thiết
(thí dụ trong bài ʺYêu Con Đời Đờiʺ của Hải Triều – Hải Linh, nhiều người hát .. ʺNgười ʺđáʺ yêu conʺ thay vì ʺNgười đã yêu conʺ…)
Thực tập 22
Hát và để ý những chữ cần láy để cho rõ lời ca.
Thực tập 22
Hát và để ý những chữ cần láy để cho rõ lời ca.
V. Những Vấn Đề Liên Quan Đến Hợp Ca
A. Tư thế , y phục và cách cầm sách hát khi ca hát
Tư thế, y phục và cách cầm sách hát của chúng ta khi hát, không những có ảnh hưởng đến tai tiếng của Ca đoàn (khi ăn mặc cầu kỳ qúa) mà còn có ảnh hưởng đến hơi thở và bộ phận phát âm, từ đó ảnh hưởng đến cách hát và đến sức khỏe của chúng ta.
1. Bộ phận lấy hơi, ngực (chest), sươn sườn (ribs) , nhất là Hoành cách mô (diphragm), cần được thoải mái để co giãn, nhất là những lúc cần lấy hơi nhanh và sâu.
– Khi đứng và ngồi:
o Đứng và ngồi với tư thế thoải mái, thẳng người, không vẹo người sang
một bên, để việc lấy hơi được dễ dàng.
o Khi ngồi, lưng tránh tì vào ghế.
o Ngực hơi vươn lên.
o Chân để trên nền nhà (feet on floor) . Khi ngồi không nên vắt chân chữ
ngũ (sẽ ảnh hưởng nhiều đến hoành cách mô.)
o Hai cánh tay không nên ép sát người (ảnh hưởng đến xương sườn)
– Y phục:
o Mặc đồ rộng rãi và thoải mái. Tránh những quần áo qúa chật (nhiều chị
mặc áo dài bó sát người đến nỗi không dám thở mạnh, như vậy sẽ chắc
chắn ảnh hưởng đến việc ca hát)
o Mặc kín đáo và lịch sự, vừa không ảnh hưởng đến hơi thở mà còn làm cho chúng ta tự tin hơn.
– Sách hát: cầm sao cho đúng và cho đẹp.
o Tay trái đỡ gáy sách, và tay phải cầm ở góc dưới bên tay phải để đỡ sách và dễ giở trang.
o Sách để cách xa ngực, ít là một ʺfootʺ, để có thể nhìn thấy Ca trưởng dễ dàng và để một khoảng trống thoải mái cho bộ phận lấy hơi.
o Mép trên của cuốn sách không nên cao qúa cằm (jaw) . Những người bị
cận thị nên đeo kiếng, tránh để sách sát mắt, vừa nhìn không đẹp vừa
không nhìn được Ca trưởng. Vệc cầm sách hát cũng còn tùy thuộc vào
những người bên cạnh để cầm sách sao cho đều và đẹp (cần xếp những
người có cùng chiều cao đứng gần nhau) .
2. Bộ phận phát thanh (thanh đới – vocal folds), cũng như giây đàn khi rung, tránh những va chạm và gò bó.
– Tư thế đứng và ngồi:
o Không ngoẹo đầu, ngoẹo cổ, vì như vậy sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến bộ
phận phát âm (thanh đới) và tăng âm (cổ) .
o Cằm và cổ thẳng góc 90 độ hoặc hơn nữa, nhưng không ngửa cổ qúa cao.
o Khi hát trầm thì hơi vươn lồng ngực lên.
o Khi lên cao thì hơi cúi mặt xuống.
– Y phục: Tránh mặc áo bó sát cổ, nhất là những lúc đeo ʺtieʺ hoặc nơ.
– Sách hát: không cầm sách thấp qúa, làm như vậy sẽ phải cúi sâu xuống để nhìn, đầu và cổ sẽ bị gập lại.
3. Bộ phận tăng âm, dội âm và phát tiếng (miệng): giữ thoải mái (relax), tránh căng thẳng.
B. Sử dụng giác quan khi Ca hát:
1. Tai: hát trong Ca đoàn, tai của chúng ta đóng một vai trò quan trọng để điều chỉnh âm lượng và âm sắc được đồng đều và hợp nhất. Cái hay của Ca đoàn không phải do một giọng ca, mà là do sự tổng hợp của nhiều giọng ca. Lắng nghe để khởi tấu cho hợp với các bè là một điều rất quan trọng trong hợp xướng.
2. Mắt: ngoài tai ra, mắt giữ một nhiệm vụ khá quan trọng trong Ca đoàn, nhờ nó mà chúng ta có thể theo dõi Ca trưởng điều khiển. Những Ca đoàn mà ca viên không nhìn Ca trưởng khi hát, sẽ không bao giờ hát đều và hát hay được. Mắt còn dùng để nhìn bản nhạc và lời ca; thấy được những di động của Ca đoàn khi lấy hơi, khi hát, vv… hầu giúp chúng ta hát đúng và đều. Bởi vậy, khi hát trong Ca đoàn, mắt của chúng ta phải nhìn bao quát. Những lúc dạo đàn, vô đầu bài hát, cuối câu hát, luôn nhìn Ca trưởng, và để ý nhịp phách lấy hơi của Ca đoàn…
3. Thân thể: Khi đã cảm thấy mệt, nên nghỉ ngơi, uống nhiều nước (water) để ʺcool downʺ dây thanh đới và cho đầu óc được thoải mái.
C. Rung Tiếng (vibrato)
Rung là một kết quả tự nhiên khi sử dùng hơi thở một cách đúng đắn. Có 2 cách rung:
– Cách rung tự nhiên: nhẹ nhàng
– Cách rung cố tình: âm thanh nghe nặng nề, khiến người nghe không có cảm nhận được cao độ nốt một cách rõ ràng.
Khi hát solo, người ta có thể rung sao tùy ý, nhưng khi hát hợp ca thường giới hạn việc rung (vibrato) , hoặc không nên rung (pure sound), hay chỉ rung nhẹ nhàng, trừ khi Ca đoàn hát loại nhạc Opera. Để cho bớt rung, người ta phải điều khiển hơi thở làm căng và hãm giây thanh đới.
Khi hát trong Ca đoàn điều thứ nhất phải đề cao đó là sự hoà đồng. Một vài tiếng rung nhẹ nhàng trong Ca đoàn có thể làm cho cả bè được hay thêm. Có 2 điều nên tránh:
• Rung mạnh qúa có thể làm sai ʺtôngʺ, mất đi sự hài hoà của các hợp âm.
• Khi rung qúa, thường khép âm chậm hơn Ca đoàn, đưa đến việc hát ʺlòiʺ tiếng.
Mỗi loại nhạc có một cách hát khác nhau (opera, pop, country, broadway.. ), nhạc trong nhà thờ hát khác nhạc đời, điều chỉnh âm giọng cho hợp với Ca đoàn là điều đáng đề cao.
D. Tại sao Ca đoàn hát không đuợc hay?
Ca đoàn hát không hay phần lớn là do không tập hát đủ. Càng tập nhều thì càng hát nhuyễn: ʺPractice make perfectʺ!. Càng những bài hát quen, càng dễ điều khiển hơi thở của mình. Cũng như tập thể dục, tập một bài hát làm nhiều lần thì hơn là tập một lần lâu giờ. Lần thứ nhất nhắm cho hát đúng nốt nhạc, lần sau nhắm hát cho đúng lời, lần
sau nữa hát cho đúng tâm tình…
E. Khi bị bệnh có nên hát trong Ca đoàn không ?
Không nên hát vì:
• Có hại thêm cho sức khỏe .
• Vừa không hát được, vừa có thể làm hại đến Ca đoàn.
• Có thể lây bệnh đến người khác.
Chúc các bạn thành công!
prepared by: Hoàng Viết Hùng
Bài Kiểm Tra
Phân biệt các Nguyên âm và Khép âm
Lời Ca Nguyên Âm Khép Âm
Trên thí dụ 1: ê : âm chính từ từ
đồi thí dụ 2: ồ: âm chính; i : bán âm cuối, bẹt miệng từ từ
cao thí dụ 3: a : âm chính; o : bán âm cuối, tròn môi từ từ
vang thí dụ 4: a : âm chính nhanh (móc đôi)
thiết tha tiếng vọng lời tình yêu Giê Su gục ngã treo thân thập giá giang cánh tay ôm tội loài người